13 chiến thuyền Hải_quân_Lục_địa

Các chiến thuyền Hải quân Lục địa Hancock và Boston chiếm giữ chiến thuyền Anh Fox ngày 7 tháng 6 năm 1777

Đến ngày 13 tháng 12 năm 1775, Quốc hội Lục địa cho phép đóng 13 chiến thuyền mới, hơn là tân trang các tàu buôn để gia tăng hạm đội. Năm chiến thuyền (Hancock, Raleigh, Randolph, Warren, và Washington) được đóng có 32 súng, năm chiến thuyền (Effingham, Montgomery, Providence, Trumble, và Virginia) có 28 súng, và ba chiến thuyền (Boston, Congress, and Delaware) có 24 súng. Trong số 8 chiếc ra biển đều bị chiếm giữ hay bị đắm.

Washington, Effingham, Congress, và Montgomery bị thủng hay bị cháy vào tháng 10 và tháng 11 năm 1777 trước khi chạy ra biển để tránh người Anh chiếm giữ chúng. USS Virginia do James Nicholson làm thuyền trưởng đã thực hiện một số vụ không thành công nhằm phá vòng vây phong tỏa vịnh Chesapeake. Ngày 31 tháng 2 năm 1778, trong một lần cố gắng khác, nó vướng cạn gần Hampton Roads và thuyền trưởng của nó phải lên bờ tại đó. Chẳng bao lâu sau, hai chiến thuyền Anh là HMS EmeraldConqueror xuất hiện tại hiện trường và tiếp nhận sự đầu hàng của chiếc USS Virginia.

Bảo vệ thương thuyền Mỹ và tấn công thương thuyền Anh và đường tiếp liệu là những nhiệm vụ chính yếu của Hải quân Lục địa. Phần lớn thành tựu của Hải quân Lục địa được ghi nhận là những chiến lợi phẩm thu được từ những vụ tấn công thương thuyền mà trong thực tiễn thời đó là mang đến lợi ích cá nhân cho các sĩ quan và thủy thủ đoàn.

Đa số tám chiến thuyền ra biển đã mang về nhiều chiến lợi phẩm và đã hành trình bán thành công nhiều lần trước khi bị chiếm giữ. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ như ngày 27 tháng 9 năm 1777, chiếc USS Delaware tham dự một hành động hoãn binh trên sông Delaware chống người Anh đang truy sát các lực lượng của George Washington. Thủy triều lên và xuống bất ngờ khiến cho chiếc Delaware bị mắt cạn và nó bị chiếm giữ.

Chiếc Warren bị phong tỏa tại Providence, Rhode Island ngay sau khi nó được đóng xong và nó đã không phá vỡ được vòng vây phong tỏa cho đến ngày 8 tháng 3 năm 1778. Sau một cuộc hành trình thành công dưới quyền của thuyền trưởng John Burroughs Hopkins, nó được giao cho đoàn viễn chinh Penobscot xấu số dưới quyền của thuyền trưởng Dudley Saltonstall. Nó bị người Anh gài bẫy và bị thủy thủ đoàn đốt cháy ngày 15 tháng 8 năm 1779 vì không muốn nó bị người Anh chiếm giữ.

Chiến thuyền Hancock với thuyền trưởng là John Manley đã tìm cách chiếm giữ được hai thương thuyền cũng như chiến thuyền Hải quân Hoàng gia AnhHMS Fox. Tuy nhiên, sau đó vào ngày 8 tháng 7 năm 1777 chiếc Hancock bị chiếc Rainbow của Anh chiếm giữ và nó trở thành chiến thuyền của Anh với tên mới là HMS Iris.

Chiến thuyền Randolph chiếm được 5 chiến lợi phẩm trong những cuộc hành trình đầu tiên của nó. Ngày 7 tháng 3 năm 1778, nó đang hộ tống một đoàn thương thuyền thì trạm trán chiến thuyền Anh HMS Yarmouth với 64-súng tấn công đoàn tàu. Chiếc Randolph dưới quyền tư lệnh của thuyền trưởng Nicholas Biddle tiến đến bảo vệ đoàn thương thuyền và đánh nhau với kẻ địch siêu đẳng hơn mình nhiều. Trong trận đánh, hai chiến thuyền đều bị hư hại nặng nhưng trong lúc đó kho đạn trên chiếc Randolph phát nổ làm toàn bộ chiến thuyền bị nổ tung cùng tất cả các thủy thủ, trừ bốn người còn sống sót. Mãnh vở của từ vụ nổ đã làm hư hại nặng chiếc Yarmouth khiến cho nó không thể truy đuổi các thương thuyền Mỹ.

Cờ Hải quân Lục địa

Chiếc Raleigh dưới quyền của thuyền trưởng John Barry, chiếm được ba chiến lợi phẩm trước khi bị mặt cạn trong lúc lâm trận ngày 27 tháng 9 năm 1778. Thủy thủ đoàn đắm chìm nó nhưng nó được người Anh trục vớt để sử dụng theo danh nghĩa của Vương mệnh Anh.

Chiếc Boston dưới quyền của thuyền trưởng Hector McNeillSamuel Tucker, chiếm được 17 chiến lợi phẩm trong những cuộc hành trình đầu tiên. Nó đã đưa John Adams đến Pháp tháng 2 và tháng 3 năm 1778. Nó bị chiếm giữ (cùng với chiến thuyền USS Providence là chiến thuyền đã chiếm được 14 chiến lợi phẩm trong thời gian phục vụ dưới quyền của thuyền trưởng Abraham Whipple) vào lúc Charleston, Nam Carolina bị thất thủ ngày 12 tháng 5 năm 1780.

Chiến thuyền cuối cùng phục vụ Hải quân Lục địa là Trumbull. Trumbull, chưa từng ra biển cho đến tháng 9 năm 1779 dưới quyền của James Nicholson, đã trở nên nổi tiếng trong một trận đánh đẫm máu chống chiến Letter of Marque Watt. Ngày 28 tháng 8 năm 1781, nó gặp chiếc HMS Iris và General Monk rồi lâm chiến. Trong trận đánh, chiếc Trumbull bị buộc phải đầu hàng các cựu chiến thuyền Mỹ (chiếc General Monk là chiến thuyền Mỹ bị chiếm được từng có tên là General Washington và chiếc HMS Iris từng là chiến thuyền Mỹ có tên Hancock).